DÒNG HỌ NGÔ
Bái Dương – Nam Dương – Nam Trực – Nam Định
BÁI DƯƠNG
NGÔ TỘC THẾ PHẢ
Người dịch (1995): | NCV. Đỗ Thị The | |
Hiệu đính (1995): | NCV. Nguyễn Hữu Tưởng | |
Biên tập (2020): | Cháu đời thứ 13 CN. Ngô Ngọc Đạt | |
Hiệu chỉnh (2020): | TS. Vũ Việt Bằng |
Viện Nghiên cứu Hán Nôm xác nhận TS. Vũ Việt Bằng là Nghiên cứu viên của Viện
|
Hà Nội, 2021
LỜI TỰA
BẢN DỊCH GIA PHẢ
Họ Ngô thôn Bái Dương là dòng họ có lịch sử lâu đời. Thủy tổ là Tiến sĩ Ngô Bật Lượng vốn người Động Bàng, Thanh Hóa, di cư về đất Bái Dương vào khoảng sau năm 1518. Thủy tổ có công lập nên giáp Thiện Phúc xã Tang Trữ tổng Bái Dương huyện Nam Chân phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định, sau được giáp này suy tôn Phúc thần. Tính từ năm Thủy tổ đỗ Tiến sỹ (1550) đến nay, dòng họ Ngô Bái Dương đã có lịch sử khoảng gần 500 năm, nối tiếp nhau đã 17 đời.
Họ Ngô ta là dòng họ có truyền thống khoa bảng, nên ngay từ ngày thành lập, tổ tiên đã dày công ghi chép lịch sử dòng họ. Sau vì thiên tai, địch họa, bản gia phả cũ đã thất lạc. Năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), cụ Ngô Huyên đã lược thuật sự tích tổ tiên ở Động Bàng, đồng thời ghi lại gia phả của chi Bái Dương. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), cụ Ngô Hiển Nguyên dựa theo bản phả của cụ Ngô Huyên, tiếp tục khảo cứu mà bổ sung. Đến nay, bản gia phả này vẫn được dòng họ giữ gìn nguyên trạng.
Năm 1995, bản phả này được người trong họ nhờ học giả Viện Nghiên cứu Hán Nôm khảo cứu văn bản, dịch ra chữ Quốc ngữ. Thực là ngọc đã sáng, nay gặp được người chốn hàn lâm như rửa trong nước giếng Mị Châu thì càng thêm sáng. Công đức ấy thực không đo đếm được.
Nay gặp thời đất nước thanh bình, quê hương đổi mới, dòng họ phát huy, anh em hòa mục, bản phả lại được cụ Ngô Ngọc Cận sai người con trai là ông Ngô Ngọc Đạt chế bản, tục biên, phần khuyết thì bổ sung, phần chưa rõ thì để đời sau khảo cứu tiếp. Ngẫm thấy, cụ Ngô Ngọc Cận tuổi đã cao mà tinh thần minh mẫn, sức dù suy mà trí tuệ tinh anh, vẹn lòng kính tổ, trọn nghĩa tôn thân. Ông Ngô Ngọc Đạt cũng sớm nối chí cha, cần mẫn sớm khuya, tầm cầu sau trước, sưu tầm dịch thuật cũng được nhiều phần, trước là tưởng nhớ cha ông, sau là hòa đồng dòng họ.
Năm 2014, ông Ngô Ngọc Đạt liên lạc với tôi qua một người đồng nghiệp. Anh em vốn chỉ đồng hương, nay vì cùng yêu mến di sản cha ông mà thành đồng tâm đồng chí. Đầu năm 2020, ông Ngô Ngọc Đạt nhờ tôi hiệu chỉnh lại bản dịch Gia phả này. Việc vinh dự mà quá sức mình, nhưng vì lòng mến mộ tiền nhân họ Ngô, lại cảm khái tấm lòng của cụ Ngô Ngọc Cận, bản thân tôi cũng muốn góp sức cho dòng họ dù ít dù nhiều nên không khước từ mà vui vẻ nhận lời.
Nay việc hiệu chỉnh bản dịch gia phả về cơ bản đã hoàn thành, bèn ghi lại lời tựa.
Hà Nội, cuối Đông năm Canh Tý (2020)
Hậu sinh: Vũ Việt Bằng
Tiến sĩ Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
kính đề tựa
MỤC LỤC
Ngô tướng công hiệu Tùng Thiện.. 10
Ngô tướng công hiệu Thành Trai 11
Ngô tướng công húy là Bật Lượng. 12
Ngô phủ quân húy Thông Đạt hiệu Thực Trai 14
Ngô phủ quân húy Phúc Thắng hiệu Đức Trai 14
Ngô quý công húy Phúc Dương hiệu Huyền Thống phủ quân.. 15
Ngô quý công húy Phúc Vạn phủ quân.. 15
Ngô quý công húy Phúc Kiêm phủ quân.. 15
Ngô quý công húy Phúc Nghi phủ quân.. 16
Ngô quý công húy Hưởng tự Thế Sỹ hiệu Thanh Đạt. 16
Ngô quý công húy Phúc Tề phủ quân.. 16
Ngô quý công húy Thế Hạo thụy Kính Khoan.. 18
Ngô Thế Đang thụy Phúc Thiện.. 18
Ngô Thế Nhiễm thụy Phúc Hiền.. 19
Ngô quý công húy Thế Cao thụy Phúc Cần.. 19
Ngô Đình Thản thụy Phúc Đạt. 19
Ngô Tất Khắc thụy Thận Chiến.. 20
Ngô Đình Phả thụy Phúc Lượng. 20
Ngô quý công húy Đức Bị thụy Hòa Nhã. 21
Ngô Đình Lực thụy Phúc Liêm… 21
Gia Hạnh đại phu, Nho sinh trúng thức, Thị nội văn chức. 31
húy Hiền Đạo, hiệu Túc Trai 31
Ngô Huệ Giao, hiệu Huấn Nho phủ quân.. 32
Ngô Thế Thuật (tên cũ là Trạch). 32
Ngô Huyền Thái hiệu Chính Đạo phủ quân.. 33
Ngô quý công húy Đỉnh tự Bật Chính thụy Phác Văn.. 34
Ngô Thế Lộc thụy Phúc Quang phủ quân.. 34
Ngô Tùng thụy Phúc Nhạc phủ quân.. 35
Ngô Thế Lễ tự Lương Năng thụy Phúc Hòa phủ quân.. 35
Ngô Thế Biền tự Nhu Lập phủ quân.. 36
Ngô phủ quân húy Thời Bá thụy Khoan Hậu.. 36
Ngô Thời Chấn thụy Tài Mẫn phủ quân.. 37
Ngô quý công húy Đình Trạc thụy Nhã Thực tiên sinh.. 38
Ngô Việp tự Tôn Nguyện húy Phúc Thái 40
Ngô quý công húy Đình Thụ tự Đạm Vị hiệu Liêm Phu phủ quân.. 40
Ngô Thế Liêm thụy Đoan Chất phủ quân.. 41
Ngô quý công húy Huy Khuê tự Viết Đán hiệu Đán Đức tử biệt hiệu Dương Lãnh tiên sinh 42
Ngô quý công huý Danh Văn (trước là Huy Mân) thuỵ Đạt Tôn.. 44
Ngô quý công huý Lệnh Huyên tự Trung Lập hiệu Khoan Phu Ngô phủ quân.. 45
Ngô Thế Tuân húy Lệnh Đôn hiệu Lương Phu thụy Cương Chất. 45
Ngô quý công húy Huy Thiểm hiệu Lương Quý phủ quân.. 46
Ngô quý công húy Huy Ánh (sau đổi là Chiếu) tự Tuần Lý hiệu Ngạn Phu phủ quân.. 47
Ngô Xuân Diệu hiệu Pháp Cơ phủ quân.. 48
Ngôi quý công húy Tiệm Quỳ hiệu Dũng Phu thụy Kích Liệt. 48
Ngô quý công húy Tiệm Bàn hiệu Vực Phu thụy Giản Tiệp phủ quân.. 48
Ngô quý công húy Xuân Thái tự Yên Xứ hiệu Hòa Phu phủ quân.. 49
Ngô Bình Thản hiệu Phúc Đình thụy Chí Thành.. 49
Ngô quý công húy Hiển Nguyên hiệu Thành Am phủ quân.. 50
Ngô quý công húy Tuấn Bính hiệu Như Đan.. 51
Ngô Bá Viên tự Bỉnh Trực hiệu Nghị phủ.. 51
Ngô Ngọc Chúc húy Kim Liên tự Bình Phủ hiệu Đốc Hành Tử.. 51
Ngô Đức Nhuận thụy Phúc Hoàng. 52
Ngô quý công húy Thế Mỹ tự Bảo Quang hiệu Tùng Hiên tiên sinh.. 52
Ngô quý công húy Thế Hân hiệu Từ Phu thụy Dương Chánh.. 54
Ngô Thế Hướng thụy Cương Nghi phủ quân.. 54
Ngô Thế Hạo hiệu Lương Phu thụy Khoan Hậu phủ quân.. 54
Ngô Thế Hoàn thụy Khiêm Hòa phủ quân.. 55
Ngô Đình Nhẫn thụy Phúc Chính.. 55
Ngô Quýnh hiệu Trực Phủ thụy Cẩn Nghiêm phủ quân.. 56
Ngô quý công húy Đức Quang hiệu Khiêm Phủ.. 57
Ngô Hãng tự Ôn Phủ hiệu Đông Hiên thụy Phúc Cương. 58
Ngô Khải hiệu Xuân Nguyên lại hiệu Khái Phu.. 58
Ngô quý công húy Thế Đễ hiệu Hữu Phủ.. 58
Ngô quý công húy Thế Duyên tự Khiêm Trai hiệu Liên Đường. 60
Ngô Đình Phú thụy Phúc Thành.. 61
Ngô quý công húy Đình Thọ thụy Chất Trực. 62
Ngô quý công húy Thế Đức tự Mạnh Cầu.. 62
Ngô quý công húy Lý Cát tự Bá Tường hiệu Tề Am phủ quân.. 62
Ngô môn nhị lang tên húy là Lý Hanh.. 63
Ngô quý công húy Lý Nhu tự là Trọng Lập hiệu Trí Hiên phủ quân.. 63
Ngô quý công húy Lý Tín tự Thục Hựu hiệu Chỉ Hiên.. 63
Ngô quý công húy Lý Dịch tên tự Tri Thúc. 64
Ngô môn ấu lang húy Lý Sướng. 64
Ngô quý công húy Lý Diên tự Tập Hy hiệu Linh Quang Tử phủ quân.. 65
Ngô Tỉnh tự Nhật Lang hiệu Lương Phu thụy Ôn Mậu.. 65
Ngô Điền hiệu Hòa phu thụy Ôn Trực. 65
Ngô quý công húy Quang Tích hiệu Ý Phu thụy Lương Trực. 66
Ngô Đức Vân tự Vong Như thụy Sơn Linh.. 66
Ngô quý công húy Cảnh tự Xuân Dương. 66
Ngô Thế Hoằng thụy Phúc Quân.. 67
Ngô Đình Hạp thụy Trực Khoan.. 67
GHI CHÉP VIỆC SỬA CHỮA TỪ ĐƯỜNG ĐẠI TÔN.. 89
Thân mẫu Tiến sĩ Ngô Thế Vinh.. 92
Cụ bà họ Nguyễn thuỵ là Từ Trực. 99
Cụ bà họ Vũ, phu nhân Tiến sỹ Ngô Thế Vinh.. 108
Bà họ Phạm thuỵ Từ Thành.. 111
Ngô phủ quân húy Huy Trình thụy Đôn Nghị 120
Phụ ghi hành trạng Tiên khảo Minh Mẫn phủ quân.. 125
Phụ ghi hành trạng Tùng Hiên tiên sinh.. 126
BÁI DƯƠNG NGÔ TỘC THẾ PHẢ
LỜI TỰA (1775)
Trong phả, chi trưởng, chi thứ đều có ghi chép riêng.
Động Bàng Ngô tộc gia phả, cùng bản Bái Dương Ngô tộc gia phả do viễn tôn Ngô Phác ghi chép lại. Tất cả 16 bản giao cho người trong họ giữ, cụ thể sau đây: 1. Trưởng tộc; 2. Ngô Kính; 3. Ngô Mai (Võ Liệt); 4. Ngô Đôn; 5. Ngô Tọa (Thụy Xuyên). 6. Ông Bang; 7. Ngô Nghĩa; 8. Như Lâm; 9. Ngô Nguyên (Hải Hậu); 10. Ngô Nghị (Nhương Nam); 11. Ngô Cương (Đạo [Tỉnh]); 12. Ngô Tuệ (Võ Lao); 13. Ngô Ngôn (Yên Nội, Ninh Bình); 14. Ngô Trạch (Ninh Bình); 15. Bản gia; 16. Ngô [Dục]; 17. Ngô Thế (Ý Yên, Phúc Đình kế phả tộc).
Cây muôn cành vạn lá là nhờ có gốc; nước muôn phái nghìn dòng là bởi có nguồn. Tổ tông ta một họ truyền nhau, đức dầy sáng mãi, đã từ rất lâu rồi. Huyên tôi kế nghiệp tổ tiên, nối gót theo sau, 20 tuổi cũng gọi là đã trưởng thành. Lòng cảm động nhớ về “Tuấn liệt thanh phân” [đức lớn, danh thơm] (Vịnh thế đức chi tuấn liệt; tụng tiền nhân chi thanh phân/Ca đức lớn tổ tiên; tụng danh thơm đời trước), mới tìm tòi gia phả dòng họ, phần nhiều chưa được rõ ràng. Rồi bỗng nhiên, sư huynh tôi là Huy Khê, tri phủ Nam Sách, đi qua Thanh Hóa, thăm Động Bàng là nơi phát tích họ Ngô ta cùng gia phả ở đó. Huyên tôi nghĩ rằng: Không truy tìm quá khứ thì biết lấy gì để nói việc tiền nhân, không nối tiếp tương lai thì biết lầy gì chở che hậu thế. Bèn lược thuật sự tích Động Bàng và gia phả của chi Bái Dương, để cho con cháu thảo hiền biết được công đức các đời, không bao giờ được quên, cũng như việc giữ gìn tên húy, cất giữ y quan (ý nói phần mộ), không thể cẩu thả được.
Đầu xuân năm Ât Mùi niên hiệu Cảnh Hưng thời Lê năm thứ 36 [1775].
Vân tôn Hiệu sinh tên hiệu Khoan Phu húy Huyên kính ghi.
LỜI TỰA (1823)
Lời tựa Gia phả Thế Đức đường họ Ngô
Nhà có phả cũng như nước phải có sử. Dòng họ Ngô ta đại khái từ Động Bàng Thanh Hóa di cư đến Thiện Tây đất Tang Trữ ấp Bái Dương. Ngày tháng đổi thay không khảo rõ được. Từ đời cụ Thượng thư Thủ Trai về sau, đời đời nho học, dựng nghiệp gian nan, trung hậu nối truyền, có tâm thuần phác, có đức làm người. Nhờ vậy văn phong còn mãi mà phúc tổ bền lâu. Đại để là như vậy.
Triều đình chỉnh sửa bạ tịch, cả họ nhà ta phụng thờ từ đường quy về Bái Dương, gọi là nhà thờ Thế Đức (Thế Đức đường) ở Giáp Thiện phúc. Ôi; Cái thiện là nền móng của phúc, phúc là tột đỉnh của đức. Có lẽ là mong muốn sâu xa, con cháu đời sau nhìn thấy tên ấy mà nhớ ý nghĩa ấy. Phàm người như ta phải nên tự luyện rèn, theo đòi học vấn, tôn trọng hiếu kính, may chăng mới không xấu hổ với đức nghĩa của cha ông, vừa để nối tiếp tiên tổ, vừa để mở mang con cháu, việc làm không vô ích vậy.
Nay dựa vào bản ghi cũ, lựa chọn bổ sung thêm, khiến đời sau có căn cứ, cũng tự cố cho bằng, tự rèn cho xứng. [5] (Thơ của Vi Huyền Thành đời Hán có câu “Ai bảo Hoa sơn cao, hãy ngước lên cho bằng. Ai bảo đức khó, hãy rèn dũa cho kịp”).
Mùa xuân niên hiệu Minh Mạng năm thứ 4 [1823] thời Nguyễn.
Cử nhân khoa Quý Dậu Ngô Hiển Nguyên, cháu 7 đời, Tri huyện Gia Lộc kính cẩn viết tại lỵ sở.
1 Bình luận. Leave new
Hôm nay mới đọc lướt qua bài viết, xin có mấy ý như sau:
– Bản Phả họ Ngô Bái Dương do Cụ Nghè Ngô Thế Vinh mấy lần vào Đồng Phang sưu tầm đối chiếu nhuận sắc (Xác nhận của chính quyền nhà nước phong kiến) rồi mới biên soạn thành Gia phả họ Ngô Bái Dương. Vậy bản phả này tại Từ đường của Cụ hiện nay còn hay không, con cháu ai là người bảo quản????
– Cuốn lịch sử họ Ngô toàn Quốc ( Tạm coi là bản gia phả chung của cả dòng họ) được tác giả Ngô Đức Thắng – hậu duệ dòng họ, Lão thành Cách mạng quê Hà Tĩnh cùng các chi họ trên toàn quốc hội họp sưu tầm vào những năm thập kỷ 80 của thế kỷ trước, cơ sở từ hơn 60 bản phả trong đó bản phả về dòng họ Ngô Bái Dương 1 nhánh của Họ Ngô Nam Chân đã được lấy từ bản phả do CỤ Nghè Ngô Thế Vinh biên soạn đã được sắc phong của triều đình!