Bài văn của Tiến sĩ Ngô Thế Vinh viết về Văn chỉ hàng huyện tại xã Cổ Nông.
( Tài liệu lấy trong dư địa chí tỉnh nam định )
Lớn lao thay đạo Thánh nhân! Rộng mênh mông như bể đại dương, để sinh nuôi muôn vật, cao đến tận trời. Do đó mà thanh danh tràn ngập Trung Quốc, ra đến các nước man di.
Những chỗ mà xe, thuyền có thể đi đến nơi được, sức ngựa lưu thông được, có trời đất che chở, mặt trời mặt trăng soi đến, được như sương mù tắm rửa được. Hễ những người có huyết khí thì đều tôn thờ. Cho nên nói rằng: Thánh nhân công đức sánh ngang với Trời.
Các câu đối ở miếu như sau:
Phiên âm:
Cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ,
Giang Hán trạc chi, thu dương bộc chi.
Dịch nghĩa:
Trông lên như núi cao, trông vào như sao sáng,
Tắm gội sông Hán, phơi phóng dưới bóng nắng thu.
Lại có câu:
Phiên âm:
Dương hồ đại tai! Đông lộ đạo nguyên đàm lĩnh biểu,
Nghiễm nhiên dịch nhược! Nam Chân văn miếu đối thiên trường.
Dịch nghĩa:
Rộng lớn lắm thay! Nguồn đạo đất Đông Lộ ngấm dần ra ngoài năm vịnh,
Thật trang hoàng thay! Nhà văn miếu của huyện Nam Chân lâu dài sánh cùng trời đất.
Bài tán bên Đông phối
Phiên âm:
Tứ vật tòng sự, chúng nhật bất vi, phát dương thánh uẩn, dĩ khai lai ty, ngũ hiếu văn mệnh, nhất quán thức truyền, học tại thủ ước, thể dụng dĩ tuyền.
Dịch nghĩa:
Theo làm việc 4 điều phải tránh, đó là: không phải lễ thì chớ mong, chớ nghe, chớ nói, chớ hành động. Trọn ngày nghe theo không phản ứng, phát huy được những sự nhiệm màu của đạo Thánh để mở mang cho sau này.
Năm hiếu (hiếu của Thiên tử, của Chư hầu, của khanh tướng, của đại phu, của thứ dân) nghe mệnh, một suốt vâng truyền, học theo ở chỗ gìn ước, thể dụng được vẹn tròn,
Câu đối như sau:
Phiên âm:
Thánh môn giáp phụ câu vô thiểm,
Đạo thống chân truyền đản hữu quy.
Dịch nghĩa:
Cửa Thánh giúp vua đều không thẹn,
Nguồn đạo chân truyền mãi dài lâu.
Bài tán bên Tây phối
Phiên âm:
Trung dung nhất bộ, khu nựu duy thành, xiển dương gia, học thuật trước vị minh, ngưỡng thuật Đường Ngu, phú bài Dương Mặc, Tam thánh đồng công, chiêu thuỳ vọng cực
Dịch nghĩa:
Một bộ sách Trung Dung, then khoá chỉ ở sự thành thực, mở mang đạo học của cha, trước thuật bảo là rõ ràng. Trông lên thì thuật theo nhà Đường, nhà Ngu, ngó xuống thì bài xích họ Dương, họ Mặc. Ba thánh chung công, sáng chói mãi để lại cho muôn đời sau.
Câu đối như sau:
Phiên âm:
Nghi thuỷ Đông sơn đồng phái mạch,
Thánh mô hiền phạm hữu chân truyền
Dịch nghĩa:
Nước sông Nghi, núi Đông Sơn, cùng chung một phái mạch,
Khuôn bậc Thánh, đạo bậc hiền đều có dòng truyền chân chính.
Bài tán các bậc hiền triết
Phiên âm:
Thánh vực hoàng thâm, tựu tham lý quật. Duy triết, duy hiền, thăng đường thập thất, hậu tiên tiếp võ. Thù, Tứ chi giang, đăng cao hữu ti, tịch bỉ Đông Sơn
Dịch nghĩa:
Cõi Thánh rộng sâu, đến dõ hang lý. Chí thánh, chí hiền, lên nhà vào cửa, trước sau nối tiếp, ở khoảng sông Thù, sông Tứ, lên cao có chỗ bắt đầu, từ núi Đông Sơn kia.
Bài tán của bậc Tiên nho
Phiên âm:
Nhật nguyệt chi minh, phi bà phi nhị, duy thị chân kiếp, nại ấp kỳ phương. Thương hải chi đại, vạn phái nhất khoa, duy thị thiên thiếp, nãi dương kỳ ba.
Dịch nghiã:
ánh sáng của mặt trời, mặt trăng soi dõi, chẳng phải gần, chẳng phải xa, chỉ có thấy được thật rõ, mới nhận lấy được toàn thơm. To lớn bao la như bể Thương hải, muôn phái một dòng, chỉ có khéo bơi lội mới dương được sóng lớn.
Bài tán của các bậc đại khoa ở trong huyện được thờ tự
Phiên âm:
Trần Lê chi thịnh, thiên khai trị bình, dân giáp nhiệm phu, tài vị thế sinh, bảng trung long hổ, thần hoa đan thanh, bách bách thế thượng hạ, duật tuân hữu thanh.
Sơn xuyên chi anh, chung vi nhân kiệt, hoài bão kỷ hoành, anh hoa phát việt, tổ tôn phụ tử, tiền quang hậu huy, nguy khoa hĩnh hoàn, vi việp chiêu thuỳ.
Dịch nghĩa:
Đương buổi nhà Trần, nhà Lê còn thịnh, trời mở cảnh thái bình, sinh xuống người tôi hiền, vì đời mà sinh ra người tài giỏi. Rồng hổ ở trong bảng, thần hoá ra màu đỏ màu xanh, trên dưới trăm đời, đều để lại tiếng tốt,
Khí sáng núi sông, sinh ra người hào kiệt, hoài bão đã rộng, tươi tốt phát sinh, ông cháu cha con, trước sau chói lọi, khoa cao quan to, rực rỡ để lại đời sau.
Câu đối ở Văn miếu như sau:
Phiên âm:
Nam Việt hữu bang, túc xưng văn hiến,
Đông A nhi hậu, kế phát khôi nguyên
Dịch nghĩa:
Nam Việt từ khi có nước, đã là một nước văn hiến,
Từ đời Trần về sau, nối tiếp có các bậc khôi nguyên.
Bài tán của các bậc trung khoa trong huyện
Phiên âm:
Duy liệt tiền bối, phát túc nho lâm, thu vi bạt giai, danh tự chí cẩm, thông tịch thanh triều, thuỳ phương vọng huyện, lưu tự sơn xuyên, dĩ tăng nguỡng luyện,
Hoè vi độc bộ, quế tịch đồng khoa, kỳ thăng ư quốc, diệc thế kỳ gia, hậu tiên tiếp võ, uy hữu huy hoa, chi diệp tự tai, phong thanh doãn hà.
Dịch nghĩa:
Các bậc tiền bối trước, nổi tiếng rừng nho, đậu ở bảng thi Hương, tên họ truyền đến ngày nay. Làm quan ở triều đình, tiếng thơm để lại hàng huyện. Lâu dài mãi mãi với non sông, càng thêm trông nhớ,
Bước một mình ở Vị Hoè, nghĩa đồng khoa trong sổ quế, đã được vinh ở nước, cũng truyền đời ở nhà, trước sau nối bước, rực rỡ sáng chói, sử sách còn ghi lại, tiếng tăm vang vọng rất xa.
Câu đối như sau:
Phiên âm:
Tòng Thánh hiền môn hộ trung lai, tương truyền chính mạch,
Do khoa mục thản đề nhi xuất, tỉnh trước đề danh.
Dịch nghĩa:
Từ cửa Thánh hiền mà ra, truyền nhau mạch chính,
Như đường thẳng khoa mục mà đến, đều rõ họ tên.
Bài dẫn giải họ tên, hiệu của các bậc tiên nho đại khoa như sau:
Nam Chân là một huyện lớn, ngày xưa gọi là Tây Chân. Đến thời Lê Trung Hưng vì kiêng huý Tây vương Trịnh Tạc nên mới đổi thành Nam Chân. Đến khoảng năm Minh Mệnh, các quan tinh Nam Định tâu xin cắt lấy từ sông Phù Kim về phía Nam, đặt làm huyện Chân Ninh, còn phía bắc đặt là huyện Nam Chân.
Các bậc khoa bảng văn thân ở huyện này xưa nay họp làm hội Văn, dựng lên nhà Văn Thánh (Văn miếu). Hàng năm cứ đến hai kỳ Xuân Thu là làm lễ tế Tiên Thánh sư và các bậc tiên triết, tiên hiền, có đem các đại khoa, trung khoa ở trong huyện vào phối hưởng.
Năm Quý Sửu niên hiệu Tự Đức 6 (1853) mới dựng lên ở Văn miếu một toà chính tẩm. ở giữa thờ Khổng Tử, ở hai bên phải trái đều có một toà nhà ngang. Nhà bên tả (trái) thì đặt bài vị các bậc đại khoa, nhà bên hữu (phải) đặt bài vị của các bậc trung khoa vào tòng tự.
Hai kỳ xuân thu, hễ đến ngày định là làm lễ tế, đến ngày Nguyên đán thì đốt hương cúng lễ. Bắt đầu từ năm Giáp Dần. Còn huyện Chân Ninh thì đã dựng nhà Văn miếu ở trong hạt và cũng đã rước các bậc đại khoa tiên nho ở trong huyện vào tòng tự.
Ôi ! Thanh danh của các bậc tiền bối để cho người sau chiêm ngưõng, nước ta ghi chép thiếu sót, không có liệt truyện chí biểu để nêu rõ những sự tốt đẹp của người trước. Cái phần này chỉ chép rời rạc một vài hàng chữ, làm cho người đời sau không được biết rõ ràng.
Vả lại như Hiến Giản đại vương đời Trần, chính là người Thượng Lao, là người đậu cùng khoa với đại khôi họ Đào, mà ông lại là người chết trung nghĩa vì nước, nghìn năm về sau vẫn còn có sinh khí lẫm liệt, nhưng chỉ vì khoa thứ, quán chỉ không được rõ ràng, làm cho sổ sách trong hàng huyện không liệt víu vào đâu, để đem cúng tế sơ sài, không chú ý đến. Thật là một điều thiếu sót lớn. ..Hễ thấy được những sự tích của các bậc tiên hiền sót lại là biên chép ngay theo khoa thứ trước sau, hệt như sổ cũ, quan hàm thì cứ theo lời giản tiện viết lên bài vị, còn đại lược sự trạng thì đều chép kỹ vào sau, để cẩn then ở chỗ thờ. Ngõ hầu đến khi tìm được, thấy được rõ ràng. Để không quên cái lòng tôn kính như cao sơn cảnh hành, khiến cho người sau có chỗ để khảo cứu.
Bài này viết vào ngày Sóc (mùng 1) tháng Trọng thu (tháng 8) năm Giáp Dần niên hiệu Tự Đức 7 (1854)
Người viết: Tiến sỹ Ngô Thế Vinh hiệu là Trọng Dực, người xã Bái Dương, đậu Tiến sỹ khoa Ất Sửu niên hiệu Minh Mệnh.