BẢNG TRA CÁC NHÀ KHOA BẢNG NAM ĐỊNH
(Xếp theo vần chữ cái họ tên nhân vật)
TRẦN MỸ GIỐNG
1 – Bùi Tân ( Cuối TK 15 – Đầu TK 16 )
Quê xã Kim Bảng, huyện Thiên Bản nay thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5(1502) đời Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Hình bộ Hữu thị lang.
2 – Bùi Văn Phan ( 1818 – ? )
Có sách chép là Bùi Duy Phiên, Bùi Quang Miện.
Quê xã Thân Thượng, huyện Đại An nay thuộc huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Quý Mão 1843, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị 4(1844), làm quanđến chức Tri phủ Thuận Thành.
3 – Dương Bật Trạc ( 1684 – ? )
Tự là Xích Thuỷ, hiệu là Thuần Chất.
Quê xã Cổ Lễ, huyện Nam Chân nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Ông nguyên họ Đào đổi thành họ Dương, là cháu xa đời của Trạng nguyên Đào Sư Tích.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Sửu niên hiệu Vĩnh Thịnh 11(1715) đời Lê Dụ Tông, được bổ Tri phủ Thiên Trường, thăng Hiến sát xứ Lạng Sơn. Ông có tác phẩm Giang sơn tri ngộ thi tập.
4 – Dương Xân (TK 16)
Quê xã Cao Hương, huyện Thiên Bản nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Mùi niên hiệu Đại Chính 6(1535) đời Mạc Đăng Doanh, làm quan đến chức Hình bộ Hữu thị lang, tước Diên Hà bá.
5 – Đào Minh Dương (TK16)
Có sách chép là Đào Dương Bằng.
Quê xã Hộ Xá, huyện Giao Thuỷ nay thuộc địa phận huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. (Hộ Xá xưa đã lở xuống sông do sông Hồng chuyển dòng).
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch 3(1550) đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến Thừa chính sứ.
6 – Đào Sư Tích
(Canh Dần 1350 – 4/ 9 Bính Tý 1396)
Quê xã Cổ Lễ, huyện Tây Chân nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Ông là con Tiến sĩ Đào Toàn Bân.
Ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh 2(1374) đời Trần Duệ Tông. Từ thi Hương đến thi Đình ông đều đỗ đầu. Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông được bổ chức Lễ bộ Thượng thư, thăng Nhập nội Hành khiển kiêm Hữu ty Lang trung. Năm 1383 ông viết bài đề tựa sách Bảo Hoà điện dư bút của Trần Nghệ Tông. Năm 1393 do đồng tình với Đoàn Xuân Lôi phê phán sách Minh đạo của Hồ Quý Ly nên ông bị giáng làm Trung thư Thị lang đồng Tri thẩm hình viện sự. Ông cáo quan về quê làm thuốc chữa bệnh và dạy học.
Đào Sư Tích được người đời đánh giá là một trong những người khơi nguồn thể phú thời Trần với bài Cảnh tinh phú nổi tiếng. Một số tác phẩm của ông ngày nay được biết: Bài tựa sách Bảo Hoà điện dư bút, Bài văn sách thi Đình (chép trong Lịch triều Đình đối sách văn), Mộng ký (chép trong Công dư tiệp ký), Sách lược phục hưng Đại Việt (8 tập, đã mất).
7 – Đào Toàn Bân ( TK14 )
Có sách chép là Đào Toàn Mân, Đào Tuyền Phú, Đào Kim Bản, Lê Toàn Môn…
Quê gốc xã Song Khê, huyện Yên Dụng nay thuộc xã Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Định cư xã Cổ Lễ, huyện Tây Chân nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Ông là cha Trạng nguyên Đào Sư Tích.
Ông đỗ Hương cống khoa Giáp Tý 1324, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Nhâm Dần 1362 đời Trần Dụ Tông, được bổ chức Lễ bộ Thượng thư. Năm 1381 ông được lấy làm Tri thẩm hình viện sự.
8 – Đặng Đức Địch
(20/8 Bính Tý 1816 – 4/8 Bính Thân 1896)
Tự là Cửu Tuân, hiệu là Côi Phong.
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân 1848, đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu niên hiệu Tự Đức 2(1849). Sau khi đỗ Phó bảng, ông về quê. Năm ông 38 tuổi mới được bổ chức Tri huyện Hàm Yên. Ông làm quan trải các chức Tri phủ An Bình, Đốc học Hải Dương, Giám sát ngự sử, sung Tập Hiền viện Tu soạn, Kinh diên khởi cư trú. Năm 1873 bị bệnh, ông xin về quê an dưỡng và nuôi mẹ già. Năm 1874 triều đình triệu ông ra làm Đốc học Nam Định, Thị giảng học sĩ, sung Sử quán Toản tu, Hồng lô Tự khanh. Năm 1883 ông được giao chức thự Tuần phủ Quảng Ngãi, năm 1884 thăng Lễ bộ Tham tri, sung Sử quán Toản tu, lĩnh Lễ bộ Thượng thư. Năm Đồng Khánh (1886) được sung Kinh diên giảng quan, làm việc được ít ngày, ông xin về trí sĩ và mở trường dạy học. Tác phẩm của ông có Thanh cư vịnh tập, Hán tự tự tu thư.
9 – Đặng Hữu Dương ( 1857 – ? )
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông là cháu nội Cử nhân Đặng Văn Bính, anh Cử nhân Đặng Hữu Hộ.
Ông đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão 1879, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Thành Thái 1(1889). Khoa ất Dậu 1885 ông đã thi Hội trúng cách, nhưng vì kinh thành thất thủ nên chưa kịp truyền lô. Khoa Kỷ Sửu ông lại thi và đỗ Tiến sĩ. Ông làm quan án sát Hà Nội. Sau bị đau mắt, ông xin về nghỉ. Tác phẩm của ông có Nông gia tự liệu (tập sách thuốc chữ Nôm hơn 6000 câu thơ lục bát).
10 – Đặng Kim Toán (1814 – 1881)
Có sách chép là Đặng Toán.
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Đinh Mùi 1847, đỗ Phó bảng ân khoa Mậu Thân niên hiệu Tự Đức 1(1848), được bổ Hàn lâm viện Kiểm thảo, Tri phủ Tĩnh Gia, thăng án sát Bắc Ninh, Thị giảng học sĩ. Năm Tự Đức 20(1867) ông làm Tuần phủ Hộ lý Lạng Bình. Năm 1870 thành Lạng Sơn bị vây hãm, ông bị cách chức, đi hiệu lực. Sau ông được khôi phục hàm Hồng lô Tự khanh, lĩnh Bố chánh Cao Bằng. Năm Tự Đức 27(1874) ông làm Tuần phủ Ninh Bình, rồiđược thăng Tổng đốc An Tĩnh nhưng chưa kịp nhậm chức thì mất, thọ 68 tuổi.
Ông có công chiêu tập dân lưu tán khai hoang vùng ven biển Nam Định, lập tổng Lạc Thiện thuộc huyện Giao Thuỷ. Tác phẩm của ông có Ninh Bình lâm hành vịnh tập.
11 – Đặng Ngọc Cầu (1825 – 1869)
Còn gọi là Đặng Ngọc Phác.
Quê xã Đặng Xá, huyện Thượng Nguyên nay là thôn Đặng Xá, xã Mỹ Hưng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Đinh Mùi 1847, đỗ Phó bảng ân khoa Mậu Thân niên hiệu Tự Đức 1(1848), làm quan Bố chánh Tuyên Quang. Sau bị cách chức, ông phải đi hiệu lực ở quân thứ Thái Nguyên rồi tử trận, được tặng “Tử sự” (chết vì việc nước).
12 – Đặng Phi Hiển
( 9/9 Quý Mão 1603 – 21/3 Mậu Ngọ 1678 )
Có tài liệu chép ông sinh 1567, mất 1650 thọ 84 tuổi.
Quê xã Thuỵ Trung, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Ngọc Thỏ, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Năm 25 tuổi (có sách chép năm 62 tuổi) ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ 10(1628)đời Lê Thần Tông. Năm 1631 ông được giao chức Hiến sát sứ Tuyên Quang, rồi Trấn thủ Thanh Hoa. Ông có công dẹp phỉ, được phong tước Vệ Thuỵ hầu. Sau ông được về kinh làm Đông các Đại học sĩ. Tác phẩm của ông có Nam du tập, Bắc sơn hành ký.
13 – Đặng Xuân Bảng ( 1828 – 1910 )
Tự là Hy Long, hiệu là Thiện Đình, Văn Phủ.
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông là anh Cử nhân Đặng Ngọc Toản, cha Đặng Xuân Viện, ông nội Trường Chinh.
Ông đỗ Tú tài hai khoa 1846 và 1848, đỗ Cử nhân khoa Canh Tuất 1850, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Tự Đức 9(1856). Sau khi đỗ Cử nhân ông đã ra làm Giáo thụ phủ Ninh Giang. Năm 1857 ông được sung vào Nội các tham gia chỉnh lý bộ Nhân sự kim giám. Năm 1859 ông giữ chức quyền Tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hoá), năm 1860 làm Tri phủ Yên Bình (Tuyên Quang). Năm 1861 ông về Huế làm Giám sát ngự sử. Năm 1864 ông làm án sát sứ Quảng Yên, cùng Trương Quốc Dụng dẹp giặc Khách và thổ phỉ. Năm 1867 ông làm Bố chánh Thanh Hoá, năm 1868 đổi Bố chánh Tuyên Quang, cùng Nguyễn Bá Nghi dẹp bọn Tàu Ô phá rối tỉnh lỵ. Năm 1869 ông lại đổi làm Bố chánh Thanh Hoá, Bố chánh Hà Nội, rồi Bố chánh Sơn Tây. Năm 1872 ông làm Tuần phủ Hải Dương, đánh dẹp quân Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh. Cuối năm 1873 thành Hải Dương lọt vào tay quân Pháp, ông bị gọi về kinh chờ xử tội. Năm 1875 ông mộ dân khai hoang vùng Yên Mao (huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây). Năm 1876 ông theo Hoàng Kế Viêm mở đồn điền vùng Hưng Hoá. Năm 1878 triều đình triệu về kinh để làm quan nhưng ông từ chối, xin về phụng dưỡng mẹ. Năm 1886 triều đình cử ông làm Đốc học Nam Định. Năm 1888 vua Đồng Khánh triệu ông về kinh trọng dụng nhưng ông viện cớ tuổi cao xin về hưu trí.
Ông có công mộ dân khai hoang lập ra ấp Tả Hành (xã Văn Lâm, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Từ khi nghỉ hưu ông mở trường dạy học, học trò đông tới hàng nghìn, có nhiều người đỗ đạt. Ông chuyên tâm nghiên cứu lịch sử, địa lý, văn học, đạo đức… và có nhiều tác phẩm giá trị. Sĩ phu đương thời tôn ông là bậc học nhiều biết rộng. Sau khi mất, ông được truy phục nguyên hàm Tuần phủ. Làng Tả Hành thờ ông làm Thành hoàng làng. Tác phẩm của ông có: Bắc sử thông giám tập lãm tiện độc sử, Cổ kim thiện ác tính, Cổ nhân ngôn hành lục, Cư gia huấn giới tắc, Diễn huấn tục quốc âm, Giao Thuỷ phong thổ vịnh, Huấn tục ca, Huấn tử quốc âm ca, Khâm định tập vận trích yếu, Kinh truyện toát yếu, Nam phương danh vật bị khảo, Nam sử tiện lãm, Nhị Độ Mai diễn âm, Như Tuyên thi tập, Sử học bị khảo, Thánh tổ hạnh thục diễn âm ca, Thánh tổ thực lục, Thiện Đình Khiêm Trai văn tập, Thiện Đình thi, Thông giám tập lãm tiện độc, Tiên nghiêm Hội, Đình thí văn, Tuyên Quang tỉnh phú, Việt sử cương mục tiết yếu…
14- Đinh Thao Ngọc
(Cuối TK15 – Đầu TK16)
Quê xã Hải Lộ, huyện Tây Chân nay thuộc xã Liêm Hải, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh 4(1508) đời Lê Uy Mục, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
15 – Đinh trung thuần (1463 – ? )
Quê xã Phùng Xá, huyện ý Yên nay thuộc xã Yên Khánh, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
25 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông, làm quanđến chức Thượng thư. Ông vốn không ham giàu sang, tính cương trực nên xin về vui thú điền viên. Tác phẩm của ông còn một bài thơ lưu truyền trong dân gian.
16 – Đỗ Dương Thanh (1878 – 1946)
Quê xã Đại An (Thái Đường), huyện Thượng Nguyên nay là thôn Đại An, xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đỗ Cử nhân khoa Canh tý (1900). 24 tuổi đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13(1901), làm quan đến chức án sát. Về trí sĩ. Mất tại quê. Tác phẩm của ông có Thế gian nghịch cảnh ký.
17 – Đỗ Huy Liêu (1844 – 1891)
Tự là Tỉnh Ông (có sách chép là Ông Tích), hiệu là Tân Xuyên (có sách chép là Đông La).
Quê xã La Ngạn, huyện Đại An nay là thôn La Ngạn, xã YênĐồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông là con Phó bảng Đỗ Huy Uyển, cháu nội Cử nhân Đỗ Huy Cảnh.
Ông đỗ Giải nguyên Cử nhân khoa Đinh Mão 1867, đỗ Đình nguyên Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Mão niên hiệu Tự Đức 32(1879).
Trước khi thi Hội ông làm Huấn đạo Yên Mô, hàm Điển tịch. Khi vào thi Đình, bài đối sách của ông mạch lạc, được châu phê là “Quả có thực học, những kẻ dẫm theo vết mòn không thể làm được”. Ông được bổ Tri phủ Đoan Hùng, rồi Lâm Thao, hàm Tập hiền viện Trước tác. Năm Kiến Phúc 1(1884) ông được thăng hàm Hồng lô Tự thiếu khanh, giữ chức Biện lý bộ Hộ, Tham biện Nội các sự vụ. Sau khi quân Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông cáo quan về quê, cùng Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi, Nguyễn Đức Huy mộ quân khởi nghĩa nhưng việc không thành. Ông bị Pháp bắt giam hai năm. Bọn thực dân Pháp dụ dỗ, mua chuộc, cử ông làm Bố chánh Bắc Ninh nhưng ông kiên quyết từ chối. Ông sống trong tâm trạng đau buồn trước cảnh nước mất. Sau khi mẹ ông qua đời, ông cũng mất theo. (Có thuyết nói ông tự vẫn bằng thuốc độc).
Một số tác phẩm của ông hiện còn là Điện thí chế sách, Đông La thi tập (trong bộ La Ngạn Đỗ đại gia thi tập), Đông La văn tập, La Ngạn biện lý xã (Soạn chung với Đỗ Huy Uyển), La Ngạn Đỗ đại gia phú tập, Tân Xuyên văn tập, Tỉnh Ông thi tập…
18 – Đỗ Huy Uyển (1816 – 1882)
Tự là Viên Khuê, hiệu là Tân Giang.
Quê xã La Ngạn, huyện Đại An nay là thôn La Ngạn, xã YênĐồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông là con Cử nhân Đỗ Huy Cảnh, cha Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu.
Ông đỗ Cử nhân khoa Canh Tý 1840, đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị 1(1841). Khoa này ông thi Hội được 12 điểm, đáng đỗ Tiến sĩ, nhưng vì bài Kim văn có một câu viết khiếm nhã nên bị giáng xuống Phó bảng.
Sau khi đỗ Phó bảng, ông được bổ Hàn lâm viện Kiểm thảo. Năm Tự Đức 1(1848) ông được sung vào Kinh diên, đi giữ chức Tri phủ Bình Giang, lại về kinh làm Giám sát Ngự sử, rồi Đốc học Vĩnh Long, thăng Lễ bộ Lang trung. Nhân việc soạn thảo chiếu dụ được vua khen ngợi, ông được ban hàm Thái thường Thiếu khanh, giữ chức Biện lý bộ Hộ. Vì ốm đau ông cáo quan về quê và mất, thọ 68 tuổi.
Ông nổi tiếng về phương pháp tự học và giáo dục trong gia đình. Thành ngữ “Tố đắc ư đình huấn ” (nhờ gia đình dạy dỗ mà trở nên giỏi) là để ca ngợi phương pháp giáo dục của gia đình ông. Tác phẩm của ông có Khái đồng thuyết ước, La Ngạn biện lý xã (Soạn chung với Đỗ Huy Liêu), La Ngạn thi văn tập, Nam Định chúc hỗ ca cách, Tân Giang từ tập, Tân Giang văn tập, Tự học cầu tinh ca, Tập thơ Nôm viết về Mẫu Liễu Hạnh, Văn Công gia lễ tồn chân…
19 – Đỗ Hựu (1441 – ? )
Quê xã Đại Nhiễm, huyện ý Yên nay thuộc xã Yên Bình, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9(1478) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang, từng đi sứ nhà Minh. Ông có công chiêu tập dân khai khẩn vùng đất ven sông Hát.
20 – Đỗ Phát (1813 – 1893)
Có sách chép là Đỗ Tông Phát. Tự là Xạ Phu, hiệu là Tử Huấn (có sách chép là Tử Tuấn).
Quê xã Quần Anh, huyện Chân Ninh nay thuộc huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Ông là cha Giải nguyên Cử nhân Đỗ Bỉnh Thành.
Ông đỗ Giải nguyên Cử nhân khoa Canh Tý 1840, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân ân khoa Quý Mão niên hiệu Thiệu Trị 3(1843), được bổ Hàn lâm viện Biên tu. Nhận chức được mấy năm ông xin về phụng dưỡng mẹ già. Năm Tự Đức1(1848) ông nhậm chức Tri phủ ứng Hoà, rồi Đốc học Nghệ An. Do bị ốm, ông xin về quê dưỡng bệnh. Trong thời gian dưỡng bệnh ở quê, ông chiêu mộ nghĩa binh xin đi giữ biên giới Đông Bắc. Triều đình triệu ông về kinh thăng hàm Quang lộc Tự thiếu khanh, Quốc sử quán Toản tu, lại điều về Nam Định làm Thương biện tỉnh vụ kiêm Dinh điền Phó sứ. Sau ông phục chức Biên tu kiêm Biện điều sự vụ, lĩnh Dinh điền sứ. Năm 70 tuổi ông về hưu, mất năm 1893 thọ 81 tuổi.
Có sách chép ông làm quan đến chức Quốc tử giám Tế tửu, sung Dinh điền sứ, bị giáng, sau được phục hàm Hồng lô Tự khanh, thăng Thị lang. Tác phẩm của ông có Điếu vãn đối trướng văn, Hiếu thuận ước ngữ, Thuỷ kính lục.
21 – Đỗ Văn Toại (1872 – ? )
Quê xã Nguyệt Mại, huyện Vụ Bản nay là thôn Nguyệt Mại, xãĐại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Canh Tý 1900, đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi niên hiệu Thành Thái 19(1907). Khoa Giáp Thìn 1904 ông đã thi Hội trúng cách, sau khi yết bảng phải về cư tang cha nên khoa Đinh Mùi được vào thi Điện. Ông có tài về hoạ và thơ văn. Ông có tác phẩm Cổ thụ cách tập (72 bài).
22 – Đồng Công Viện (1681 – ? )
Quê xã Hải Lạng, huyện Đại An nay là thôn Hải Lạng, xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Ông thi Hương đỗ Tỉnh nguyên. Năm 32 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh 8(1712) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Giám sát Ngự sử.
23 – Hoàng Phạm Dịch (1701 – ? )
Quê xã Từ Quán, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Từ Quán, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
48 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 9(1748) đời Lê Thần Tông, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
24 – Hoàng Quốc Trân ( 1751 – ? )
Có sách chép là Hoàng Vĩnh Trân.
Quê xã Nam Chân, huyện Nam Chân nay là thôn Nam Trực, xãĐồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
29 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40(1779) đời Lê Hiển Tông, làm quan đến Hàn lâm viện đãi chế, thự Hiến sát sứ Kinh Bắc.
25 – Khiếu Năng Tĩnh (1835 – 1920)
Quê xã Chân Mỹ, huyện Đại An nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông là cha các Cử nhân Khiếu Tam Lữ, Khiếu Tứ ứng.
Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Dần 1878, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Tự Đức 33(1880). Khoa này ông đỗ đầu kỳ thi Hội. Ông làm quan trải các chức Đốc học Nam Định, Đốc học Hà Nội, thăng Quốc tử giám Tế tửu.
Ông là một học giả uyên thâm, nhà văn, nhà giáo nổi tiếng. Tác phẩm của ông có Cố hương vịnh tập, Cổ thụ cách vịnh, Đại An bản mạt khảo, Đại An huyện chí, Hà Nội tỉnh chí, Hoài lai thi tập, Quốc đô cổ kim chí, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược…
26 – Lã Xuân Oai
(5/10 Mậu Tuất 1838 – 23/10 Tân Mão 1891)
Có sách chép là Lã Xuân Uy, tự là Thúc Bào.
Quê xã Thượng Động, huyện Phong Doanh nay thuộc xã Yên Tiến, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý 1864, đỗ Phó bảng khoa ất Sửu niên hiệu Tự Đức 18(1865), được sung vào làm việc ở Tập Hiền viện, rồi lần lượt giữ các chức Tri huyện Kỳ Anh, Tri phủ Nho Quan, án sát Ninh Bình. Ông là một chí sĩ, tác gia yêu nước, bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh.
Tác phẩm của ông có Côn Đảo thi tập, Thúc Bào thi văn tập, Thanh niên chí.
27 – Lâm Hữu Lập ( 1877 – 1947 )
Quê xã Đại An, huyện Nam Trực nay là thôn Đại An, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Canh Tý (1900). 40 tuổi đỗ Phó bảng khoa Bính Thìn niên hiệu Khải Định 1(1916), làm quan Huấn đạo trường quy thức. Mất tại quê. Tác phẩm của ông có Lịch đại chư gia khẩn thổ chí, Thiên gia thi tuyển Hán tự tập (300 bài), Thiên gia thi tuyển quốc âm tập (400 bài).
28 – Lê Hiến Giản ( 1341 – 1390 ?)
Tên trước là Lê Hiến Phủ, phạm huý vua Trần nên đổi thành Lê Hiến Giản.
Quê trang Thượng Lao, huyện Tây Chân nay thuộc xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông vốn dòng dõi Tô Hiến Thành. Cha là Tô Hiến Chương lấy vợ và lập nghiệp ở Tây Chân. Ông có người em sinh đôi là Lê Hiến Tứ đỗ Tiến sĩ cùng khoa. Cả hai anh em đều đổi từ họ Tô sang học Lê.
Năm 34 tuổi Lê Hiến Giản đỗ Bảng nhãn khoa Giáp dần niên hiệu Long Khánh 2(1374) đời Trần Duệ Tông, làm quan đến chức Thị lang. Mưu giết Hồ Quý Ly nhưng việc không thành, ông bị sát hại. Trước khi chết ông có đọc hai câu thơ :
Tấc kiếm trừ gian trời đất biết,
Tấm lòng báo nước quỷ thần hay.
29 – Lê Hiến Tứ ( 1341 – 1390 ? )
Quê trang Thượng Lao, huyện Tây Chân nay thuộc xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông là con Tô Hiến Chương, em sinh đôi của Bảng nhãn Lê Hiến Giản.
34 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Giáp dần niên hiệu Long Khánh 2(1374)đời Trần Duệ Tông, làm quan đến Ngự sử đại phu, có công trong việc bình Chiêm Thành. Ông cùng Lê Hiến Giản mưu giết Hồ Quý Ly không thành, bị sát hại.
30 – Lương Thế Vinh ( 1441 – 1496 )
Tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thuỵ Hiên, dân gian quen gọi là Trạng Lường.
Quê xã Cao Hương, huyện Thiên Bản nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Giải nguyên Hương cống khoa Nhâm Ngọ 1462, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận 4(1463) đời Lê Thánh Tông, được bổ Hàn lâm viện Trực học sĩ, quyền Cấp sự trung Công khoa. Sau ông lại kiêm Đồng bí thư giám, thăng Hàn lâm viện Thị giảng, kiêm Tư huấn Sùng Văn quán và Tú Lâm cục. Năm 1484 ông tham gia soạn thảo Văn bia Tiến sĩ, được thăng Hàn lâm viện Thị giảng Chưởng viện sự, Nhập thị Kinh diên, tri Sùng Văn quán và Tú Lâm cục, Hộ bộ Tả thị lang, tước Hương Lĩnh hầu. Năm 1493 ông làm Độc quyển khảo quan thi Đình khoa Quý Sửu. Năm 1495 ông đi Tây chinh với vua Lê Thánh Tông. Ông từng là Sái phu Tao Đàn hội, có nhiệm vụ biên tập và sửa chữa thơ của các hội viên. Sau khi mất, ông được phong làm Phúc thần.
Ông là nhà chính trị, nhà toán học, nhà văn, có tài về âm nhạc và nghệ thuật sân khấu chèo. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã đánh giá ông là người ” tài hoa danh vọng vượt bậc “.
Tác phẩm của ông có : Bang giao thừa mệnh (đã mất), Bài tựa sách Nam tông tự pháp đồ, Bài tựa sách Thiền môn giáo khoa, Bình Nam chỉ chưởng, Đại thành toán pháp, Đô đốc Đinh Trọng An mộ bi ký, Hý phường phả lục, Nhận thánh Hoàng Thái hậu văn, Phật kinh thập giới, Văn bia chùa Diên Hựu và nhiều thơ chép trong Thiên Nam dư hạ tập.
31 – Ngô Bật Lượng ( TK 16 )
Quê xã Bái Dương, huyện Tây Chân nay là thôn Bái Dương, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đỗ Hội nguyên Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch 3(1550) đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến Tả thị lang, hàm Đắc tiền kim vĩnh lộc đại phu, tước Phụng Công hầu. (Có sách chép ông làm quan đến Binh bộ Thượng thư). Ông mất trên đường đi sứ nhà Minh.
32 – Ngô Thế Vinh (1803 – 1856)
Tự là Trọng Phu, Trọng Nhượng, Trọng Dực, hiệu là Dương Đình, Khúc Giang, Trúc Đường.
Quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân nay là thôn Bái Dương, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông là em Cử nhân Ngô Đình Thái, ông nội Cử nhân Ngô Huy Trình.
Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý 1828, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Mệnh 10(1829), được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, lĩnh Tri phủ Định Viễn. Sau ông chuyển làm Viên ngoại lang bộ Lại, rồi được thăng Lễ bộ Lang trung. Do phạm lỗi trong khi chấm thi, ông bị cách chức và bị tước cả học vị Tiến sĩ. Ông về quê mở trường dạy học. Ông nhiều lần đề nghị triều đình sửa đổi cách học cách thi nhưng không được chấp nhận. Sáng tác của ông gồm nhiều thể loại : thơ, phú, trướng, đối, liên, tấu, biểu, sớ, tụng, tự, bạt, bi, minh… Sau vua Tự Đức đã khôi phục danh hiệu Tiến sĩ cho ông. Tác phẩm của ông có Bài tựa và phê bình sách ức Trai di tập, Bái Dương Ngô Thế Vinh kinh hồi tiễn hành thi tập, Bái Dương Ngô tiên sinh trường thi tập, Bái Dương thi tập, Bái Dương thư tập, Bái Dương Tiến sĩ Ngô tiên sinh thi tập, Dương Đình phú tuyển, Dương Đình thi phú văn tập, Giai văn tập ký (In chung với Phan Đình Phùng…), Hoàng các di văn, Khái đồng thuyết ước nhuận sắc, Khảo xích đạc bộ pháp, Khúc Giang Ngô Dương Đình văn tập, Luận thức đại lược, Nam Chân vịnh,Ngô Dương Đình văn tập, Nguyễn triều tấu biểu, Nhị Đào công từ bi, Nữ huấn tân thư, Tống sử lược, Trúc Đường chu dịch tuỳ bút, Trúc Đường khoá sách, Trúc Đường phú tập, Trúc Đường phú tuyển, Trúc Đường thi văn tập, Trúc Đường thi văn tập, Trúc Đường thi văn tập tuỳ bút, Trúc Đường thi văn thảo, Trúc Đường tuỳ bút…
33 – Ngô Tiêm ( 1749 – 1818 )
Quê xã Cát Đằng, huyện Vọng Doanh nay là thôn Cát Đằng, xã Yên Tiến, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40(1779) đời Lê Hiển Tông, làm quan đến chức Đông các Hiệu thư, Đốc đồng kiêm Đốc trấn Lạng Sơn, bị cách chức. Sau ông được phục chức Thái Hoà điện học sĩ, tước Mỹ Phái hầu. Đến đời Lê Mẫn Đế niên hiệu Chiêu Thống ông làm Tổng quản thiên hạ cần vương binh mã hậu giá chinh man đại tướng quân. Sau ông về quê dạy học. Đầu đời Gia Long ông được triệu ra làm Đốc học Sơn Tây, tước Nghĩa Phái hầu. Khi tuổi cao, ông cáo về quê và mất, thọ 70 tuổi.
34 – Ngô Trần Thực (1724 – ? )
Có sách chép tên ông là Ngô Đình Thực.
Quê gốc xã Phật Tích, huyện Tiên Du.
Định cư xã Bách Tính, huyện Nam Chân nay là thôn Bách Tính, xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Giải nguyên rồi đỗ khoa Hoành từ. Năm 37 tuổi đỗ Đình nguyên Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 21(1760) đời Lê Hiển Tông, làm quan đến Đông các Đại học sĩ, thự Thiêm Đô ngự sử, tước Diên Trạch bá.
35 – Nguyễn Âu Chuyên (1860 – 1895)
Khi đi thi Hương ông khai tăng tuổi nên nhiều tài liệu chép ông sinh năm Đinh Tỵ 1857.
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Giải nguyên Cử nhân khoa Kỷ Mão 1879, đỗ Phó bảng ân khoa Giáp Thân niên hiệu Kiến Phúc 1(1884).
Sau khi đỗ Cử nhân, ông được bổ chức Giáo thụ. Năm 1884 ông được thăng Tri huyện rồi Tri phủ. Năm 1890 ông làm án sát Bắc Ninh, năm 1892 thăng Bố chánh Bắc Ninh. Ông mất tại lỵ sở năm 1895, thọ 36 tuổi. Ông có các tác phẩm: Bắc Ninh chí, Hoàng hôn chí.
36 – Nguyễn Công Bật (1599 – ? )
Quê xã Khang Cù, huyện Tây Chân nay là thôn Giao Cù, xãĐồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
54 tuổi ông đỗ Đình nguyên Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức 4(1652) đời Lê Thần Tông, làm quan Đốc học Thanh hoá, sau giữ chức Lại khoa Cấp sự trung, rồi Thị lang bộ Lại, tước tử. Về trí sĩ.
37 – Nguyễn Danh Nho (1638 – 1699)
Hiệu là Sần Hiên.
Quê gốc xã Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương.
Định cư xã Cổ Nông, huyện Nam Chân nay thuộc xã Bình Minh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Năm 33 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8(1670) đời Lê Huyền Tông, làm quan đến chức Bồi tụng Hữu thị lang, tước Nam. Ông từng đi sứ nhà Thanh. Sau khi mất, ông được tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Tử. Tác phẩm của ông còn 12 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
38 – Nguyễn Địch ( TK 15 )
Quê xã Vụ Sài, huyện Đại An nay là thôn Vò, xã Yên Lộc, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3(1442) đời Lê Thái Tông, làm quan đến chức Tả thị lang. Ông có tác phẩm Nhàn du kiến văn ký.
39 – Nguyễn Hiền (1235 – 1251 ? )
Quê xã Dương A, huyện Thượng Hiền nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
13 tuổi ông đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Đinh mùi niên hiệu Thiên ứng Chính Bình 16(1247) đời Trần Thái Tông, làm quan đến chức Thượng thư. Ông nổi tiếng là thần đồng, có tài ứng đối rất nhanh. Ông mất sớm khi đương chức. Ông có tác phẩm áp tử từ kê mẫu du hồ phú.
40 – Nguyễn Ngọc Liên (1848 – 1937)
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông là em Cử nhân Nguyễn Đức Ban.
Ông đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất 1886, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Thành Thái 1(1889), được bổ chức Tri phủ Nam Sách. Do không chịu lạy chào Toàn quyền Đông Dương De Lanessan nên ông bị giáng Hậu bổ. Sau được tái bổ chức Đốc học Nam Định nhưng ông từ chối. Ông mở trường dạy học ở quê, có nhiều người theo học.
41 – Nguyễn Sùng Nghê (1428 – ? )
Nguyên quán huyện Vĩnh Xương nay thuộc quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Định cư xã Hiển Khánh, huyện Thiên Bản nay thuộc xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Năm 48 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Mùi niên hiệu Hồng Đức 6(1475) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, sau từ quan về dạy học.
42 – Nguyễn Thế Trân (1603 – ? )
Quê xã Bách Tính, huyện Thượng Nguyên nay là thôn Bách Tính, xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Năm 26 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ 10(1628) đời Lê Thần Tông, làm quan đến Cấp sự trung.
43 – Nguyễn Tử Đô (1464 – ? )
Quê xã Tử Mặc, huyện ý Yên nay thuộc xã Yên Trung, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Năm 36 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thống 2(1499) đời Lê Hiển Tông,được bổ chức Tri phủ Nghĩa Hưng, rồi Phó đô Ngự sử. Năm 55 tuổi (1518) ông cáo quan về quê cùng con trai làm nghề chài lưới.
44 – Nguyễn Văn Thành (1872 – ? )
Quê xã Thức Vụ, huyện Đại An nay là thôn Thức Vụ, xã Yên Cường, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ 1906, đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi niên hiệu Thành Thái 19(1907), làm quan Giáo thụ ứng Hoà.
45 – Nguyễn Văn Tính (1861 – 1930)
Quê xã Cựu Hào, huyện Vụ Bản nay là thôn Cựu Hào, xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Sau khi đỗ Tú tài, ông được vào học ở Quốc tử giám. Năm 41 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13(1901), được bổ chức Đốc học Hải Dương. Năm sau ông cáo quan về quê. Tác phẩm của ông có Minh kinh chí, Thiên Bản diên cách chí, Thiên Bản lục kỳ ký.
46 – Nguyễn Ý (1485 – ? )
Quê xã Thư Nhi, tổng Hộ Xá, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Ngọc Thỏ, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
27 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận 3(1511) đời Lê Tương Dực, làm quan đến Tự khanh.
47 – Phạm Bảo (1456 – 1501)
Quê xã Hoàng Xá, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Nhân, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông là em họ Tiến sĩ Phạm Đạo Phú.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông.
Ông là người văn võ song toàn, được bổ ngạch quan võ, giữ chức Chưởng nội thị, trải thăng Trấn thủ Nghệ An, Đại tướng đổng quân, Phó đô ngự sử. Ông mất trên đường hộ giá vua Lê Hiến Tông đi chinh chiến năm Cảnh Thống 4(1501). (Có tài liệu chép ông mất tại lỵ sở khi chuẩn bị đi kinh lý Bổn Man năm 1497). Hiện ở làng Hưng Thịnh còn đền thờ anh em ông.
48 – Phạm Duy Chất (1616 – 1665)
Còn có tên là Phạm Duy Hiền.
Quê xã Ngọ Trang, huyện Thiên Bản nay là thôn Ngọ Trang, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đố Hương cống khoa Kỷ Mão 1639, được bổ chức Chỉ huy thiêm sự. Năm 44 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2(1659) đơì Lê Thần Tông, bài ứng chế của ông đứng thứ nhất. Sau ông lại đỗ khoa Đông các, làm quan Đông các Hiệu thư. Năm 1663 ông làm Tham chính đạo Sơn Tây, rồi thăng Đông các Đại học sĩ. Sau khi mất, ông được tặng Hữu thị lang.
49 – Phạm Duy Cơ (1685 – ? )
Quê xã Từ Quán, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Từ Quán, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
26 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6(1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến Hình khoa Cấp sự trung, tước Thuân Hải bá.
50 – Phạm Đạo Phú (1463 – 1539)
Quê xã Hoàng Xá, huyện Đại An nay là thôn Phạm Xá, xã Yên Nhân, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Định cư xã Hưng Thịnh, huyện Đại An nay thuộc xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Ông là anh họ Hoàng giáp Phạm Bảo.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức 21(1490) đời Lê Thánh Tông, được bổ chức Hàn Lâm viện Kiểm thảo, thăng tới Hình bộ Tả thị lang. Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông từ quan về quê dạy học. Sau khi mất, ông được vua Lê Thế Tông tặng hàm Tham tri và phong làm phúc thần.
Ông nổi tiếng về văn thơ. Tác phẩm của ông có Tập thơ chiêu hồn bằng chữ Nôm, 15 bài thơ chép trong một số sách.
51 – Phạm Đăng Giảng
(Giáp Ngọ 1834 – ? )
Quê xã Tam Đăng, huyện Đại An nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông là con Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, anh các Cử nhân Phạm Đăng Hân, Phạm Đăng Phổ, Phạm Đăng Hài.
Ông đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý 1864, đỗ Phó bảng khoa ất Sửu niên hiệu Tự Đức 18(1865), làm quan đến Bố chánh Thanh Hoá, cải bổ Thương biện tỉnh vụ Nam Định, lo việc điều binh chống Pháp rồi mất ở chiến khu.
52 – Phạm Gia Môn (1525 – ? )
Quê xã Dương Hồi, huyện Đại An nay là thôn Dương Hồi, xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Năm 30 tuổi ông mới đi học. Năm 53 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) khoa Đinh Sửu niên hiệu Sùng Khang 10(1577) đời Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang, tước Nhân Hà bá. Năm 1592 Mạc Mậu Hợp bị bắt và bị giết, ông khởi quân ở Đồ Sơn chống lại nhà Lê. Việc không thành, ông bị quan quân nhà Lê xử tử.
53 – Phạm Hùng (TK 15)
Quê xã Đường Sơn, huyện Thiên Bản nay thuộc làng Hổ Sơn, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức 12(1481) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Hàn lâm viện Biện lý, Hình bộ Hữu thị lang. Sau ông về trí sĩ, thọ 78 tuổi.
54 – Phạm Hữu Du ( 1682 – ? )
Quê xã Quán Các, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Quán Các, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
43 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp thìn niên hiệu Bảo Thái 5(1724) đơì Lê Dụ Tông, làm quan đến Công bộ Hữu Thị lang, tước Quán Anh bá. Về trí sĩ. Ông có tác phẩm Bần gia dụng dược bằng chữ Nôm rất giá trị.
55 – Phạm Khắc Thận
(1441- 1/ 9 Kỷ Tị 1509)
Tự là Lạc Toàn.
Quê làng Ngưu Trì, huyện Nam Chân chuyển đến định cư xã Cổ Tung, huyện Nam Chân nay là thôn Cổ Tung, xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
53 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý sửu niên hiệu Hồng Đức 24 (1493) đời Lê Thánh Tông, được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý. Năm Đinh tỵ (1497) ông làm Phó sứ sang nhà Minh. Khi về nước, ông được thăng Lễ bộ Tả Thị lang, tước Xuân Lâm tử. Năm 1509 ông cầm quân dẹp hải phỉ ở sông Bạch Đằng, bị giặc chém đứt cánh tay trái rồi hy sinh. Vua Lê Hiến Tông truy tặng ông hàm Lễ bộ Thượng thư, thuỵ là Cương Nghị, phong làm phúc thần.
56 – Phạm Kim Kính
(16/1 Quý Hợi 1683 – ? )
Có sách chép ông sinh năm 1669. Còn gọi là Phạm Đình Kính.
Quê xã Cổ Sư, huyện Thiên Bản nay là thôn Vĩnh Lại, xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Trước ông đã đỗ khoa Sĩ Vọng. Sau ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6(1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan trải các chức Lễ bộ Thượng thư, Tham tụng, Đông các Đại học sĩ Nhập thị Kinh diên. Năm 1723 ông được cử đi sứ mừng Thanh Thế Tông lên ngôi, được vua nhà Thanh tặng biển vàng đề “Vạn thế vĩnh lại” (Muôn đời được cậy nhờ). Khi về hưu, ông được phong tước Lại Quận công. Sau khi mất, ông được tặng hàm Thiếu bảo.
57 – Phạm Ngọc Thuỵ (1871 – ? )
Còn gọi là Phạm Danh Sắc, Phạm Ngọc Đoan.
Quê xã Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông là con Cử nhân Phạm Ngọc Chất.
Ông đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ 1894, đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13(1901), được bổ chức Giáo thụ làm việc ở nhiều nơi như Nghĩa Hưng, Lạng Sơn, Yên Lạc (Vĩnh Yên), Thuận Thành (Hà Bắc), Trực Ninh, ứng Hoà… Năm 1916 ông làm Phụ tá cho các quan huyện, phủ. Năm 1927 ông về hưu.
58 – Phạm Thế Lịch (1791 – 1872)
Có sách chép ông mất 1883.
Sau đổi tên là Phạm Thế Trung, tự là Quý Hoà, hiệu là Chỉ Trai.
Quê xã Quần Mông, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Lạc Quần, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý 1828, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Mệnh 10(1829), làm quanđến Tổng đốc Ninh Thái, từng đi sứ nhà Thanh. Năm 1852 bị miễn chức, ông về quê mở trường dạy học. Tác phẩm của ông có Sứ Hoa quyển, Sứ Thanh văn lục…
59 – Phạm Tráng
(Cuối TK 15 – Đầu TK 16 )
Quê xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thuỷ nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. (Làng Dũng Nhuệ xưa đã bị lở xuống sông Hồng ).
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5(1502) đời Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Lại bộ Hữu thị lang.
60 – Phạm Trọng Huyến (1746 – ? )
Còn có tên là Phạm Trọng Việp, tự là Sỹ Huy, hiệu là Dũng Ông.
Quê xã Dũng Quyết, huyện ý Yên nay là thôn Dũng Quyết, xã Yên Phú, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Năm 33 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 39(1778) đời Lê Hiển Tông, được bổ chức Tri phủ Lỵ Nhân, rồi Hàn lâm viện Thị chế Tri hộ phiên, Hàn lâm viện Thị thư. Sau ông bị cách chức. Tác phẩm của ông có ý Yên chư cổ tích đề vịnh.
61 – Phạm Văn Nghị (1805 – 1880)
Hiệu là Nghĩa Trai, Liên Hoa Động Chủ Nhân.
Quê xã Tam Đăng, huyện Đại An nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Đinh Dậu 1837, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh 19(1838), được bổ chức Tri phủ Lý Nhân, Hàn lâm viện Tu soạn, Sử quán Biên tu. Tác phẩm của ông có Tùng viên thi tập, Bài phú Pháp đánh Bắc Kỳ lần đầu 1873, Phạm Nghĩa Trai tự ký, Sơn thuỷ quốc âm thi…
62 – Phan Thiện Niệm (1869 – ? )
Quê xã Quả Linh, huyện Vụ Bản nay là thôn Quả Linh, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông là cháu Cử nhân Phan Văn Lịch.
Ông đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ 1906, đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi niên hiệu Thành Thái 19(1907), làm quan Tri huyện Cẩm Khê. Tác phẩm của ông có Cẩm Khê ký, Thiện Niệm thi tập.
63 – Tống Hân (1535 – ? )
Tên khác là Sơn Thành, tự là Xuân Vũ, hiệu là Hoà Phong.
Quê xã Vũ Lao, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Vũ Lao, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
22 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo 2(1556) đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến Thượng thư, tước Lễ Khê bá.
64 – Trần Bích Hoành (1452 – ? )
Quê xã Vân Cát, huyện Thiên Bản nay là thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9(1478) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ.
65 – Trần Bích San (1838 – 1878)
Còn có tên là Trần Hy Tăng, tự là Vọng Nghi, hiệu là Mai Nham.
Quê xã Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc nay thuộc nội thành Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ông là con Phó bảng Trần Doãn Đạt.
Ông đỗ Tú tài khoa Tân Dậu 1861, đỗ Giải nguyên Cử nhân khoa Giáp Tý 1864, đỗ Hội nguyên và Đình nguyên Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa ất Sửu niên hiệu Tự Đức 18(1865), được vua ban cho cờ “Liên trúng Tam nguyên” và cho đổi tên là Trần Hy Tăng.
Sau khi đỗ Hoàng giáp, ông được bổ chức Hàn lâm viện Tu soạn, sung Nội các Bí thư sở hành tẩu. Năm 1867 ông làm Tri phủ Thăng Bình, năm 1868 đổi Tri phủ Điện Bàn, rồi án sát Bình Định. Khi làm Phó chủ khảo trường thi Hương ở Thừa Thiên, ông gợi ý cho thí sinh nói trái ý định thoả hiệp của Tự Đức nên bị giáng làm Tri phủ An Nhơn. Năm 1869 ông được thăng hàm Hồng lô Tự thiếu khanh, Biện lý bộ Hộ kiêm quản Thông chính ty, Chưởng Hàn lâm viện. Năm 1871 ông được cử đi công cán ở Quảng Đông (Trung Quốc). Năm 1874 ông được thăng Lại bộ Thị lang, Tuần phủ Trị Bình, rồi Tuần phủ Hà Nội. Năm 1878 ông làm Lễ bộ Tả tham tri, sung Chánh sứ đi Pháp, nhưng chưa kịp đi thì mất ở Huế. Sau khi mất, ông được truy tặng hàm Tham tri.
Tác phẩm của ông có Gia huấn ca, Mai Nham Trần tiên sinh thi thảo, Nhân sự kim giám, Thanh Tâm tài nhân thi tập, Thế sự nan tri vịnh…
66 – Trần Doãn Đạt (1822 – ? )
Còn có tên là Trần Đình Khanh, Trần Đình Giám.
Quê xã Vị Hoàng, huyện Mỹ Lộc nay thuộc nội thành Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ông là cha Tam nguyên Hoàng giáp Trần Bích San.
Ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý 1852, đỗ Phó bảng khoa Nhâm Tuất niên hiệu Tự Đức 15(1862), làm quan án sát Hưng Hoá. Ông có tác phẩm Nam Định thuỷ mạt khảo.
67 – Trần Đạo Tái (TK 13)
Quê hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường nay là thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ông là con Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, cháu nội vua Trần Thái Tông.
Ông đỗ Bảng nhãn dưới triều Trần Thánh Tông khi mới 14 tuổi, được phong tước Văn Túc Vương. Tác phẩm của ông có Thiên Trường cảnh vịnh tập.
68 – Trần Đình Huyên (1561 – ? )
Quê xã Cổ Chử, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Dứa, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông là con Trạng nguyên Trần Văn Bảo.
26 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất niên hiệu Đoan Thái 2(1586) đời Mạc Mậu Hợp (Có sách chép nhầm là Đoan Thái 1), làm quan nhà Lê đến Công khoa Đô cấp sự trung, thăng Hình bộ Thượng thư. Sau ông bỏ đi không rõ tông tích.
69 – Trần Hữu Thành (1558 – ? )
Quê xã Đào Lạng, huyện Đại An nay thuộc xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Năm 29 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoang giáp) khoa Bính Tuất niên hiệu Đoan Thái 2(1586) đời Mạc Mậu Hợp, được bổ chức Trấn đông tướng quân, rồi Đề hình Giám sát Ngự sử. Sau ông theo nhà Lê.
70 – Trần Kỳ (TK 15)
Quê xã An Thái, huyện Thiên Bản nay là thôn An Thái, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông, làm quanđến chức Hàn lâm viện, Đông Các Hiệu thư.
71 – Trần Mại (1688 – ? )
Có sách chép là Trần Lệ, Trần Lộ.
Quê xã Vị Hoàng, huyện Mỹ Lộc nay thuộc nội thành Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu niên hiệu Bảo Thái 2(1721) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Công bộ Hữu thị lang. Sau ông về trí sĩ, thuỵ là Doãn Phác Tiên Sinh.
72 – Trần Thuỵ (TK16)
Có sách chép là Trần Nhụ, Trần Thuỵ Công.
Quê xã Ngọc Bộ, huyện Đại An nay là thôn Độc Bộ, xã Yên Nhân, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức 3(1529) đời Mạc Đăng Dung, làm quan đến Hàn lâm viện Hiệu thảo.
73 – Trần Văn Bảo (1521 – 1610)
Trần Văn Bảo sau đổi là Trần Văn Nghi, có sách chép là Trần Văn Tuyên.
Quê xã Cổ Chử, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Dứa, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
27 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch 3(1550) đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến Thượng thư, tước Nghĩa Sơn bá, sau khi mất được ban tước Nghĩa Quận công. Ông từng được cử đi sứ nhà Minh. Năm 1586 ông bỏ quan đi ẩn dật tại làng Phù Tải, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Tại đây ông mở trường dạy học đào tạo nhân tài cho đất nước đến khi mất.
74 – Trần Xuân Vinh (TK 15)
Quê xã Năng Lự, huyện Mỹ Lộc nay thuộc phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thống 2(1499) đời Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Đô cấp sự trung.
75 – Trịnh Hữu Thăng (1885 – ? )
Nguyên quán xã Bách Tính, huyện Thượng Nguyên nay thuộc xã Bách Thuận, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Định cư phố Định Tả, tỉnh Nam Định nay thuộc nội thành NamĐịnh, tỉnh Nam Định.
Ông là con Cử nhân Trịnh Quang Chiểu, em Cử nhân Trịnh Hữu Phu.
Ông đỗ Cử nhân khoa Kỷ Dậu 1909, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Khải Định 4(1919), làm quan đến Thừa phái Cơ mật viện.
76 – Vũ Công Độ (1805 – ? )
Quê xã Vị Hoàng, huyện Mỹ Lộc nay thuộc nội thành NamĐịnh, tỉnh Nam Định.
Ông là cha nhà thơ Vũ Công Tự.
Ông là Giám sinh, năm 28 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Minh Mệnh 13(1832), làm quan Thái bộc Tự khanh, quyền Bố chánh Thái Nguyên. Tác phẩm của ông có Tự miễn thi.
77 – Vũ Diệm ( TK 19 )
Quê xã Lộng Điền, huyện Đại An nay là thôn Lộng Điền, xã Nghĩa Đồng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Quý Mão 1843, đỗ Phó bảng khoa Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị 4(1844), làm quan Bố chánh Hải Dương, thăng Hình bộ Tả thị lang. Sau về nghỉ. Tác phẩm của ông có LộngĐiền Vũ Tiến sĩ thi tuyển.
78 – Vũ Duy Thiện (TK 15)
Quê xã An Cự, huyện Thiên Bản nay là thôn An Cự, xã Đại An, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Trước ông đã đỗ khoa Hoành Từ.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9(1478) đời Lê Thánh Tông, làm quanđến chức Hiến sát sứ, Nhập thị kinh diên, tước tử. Ông từng được cử đi sứ nhà Minh.
79 – Vũ Đình Dung (1699-1740)
Quê gốc phường Thịnh Quang, huyện Quảng Đức nay thuộc phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà nội.
Định cư xã Cà Đông, huyện Nam Chân nay thuộc xã Nam Cường, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định,
35 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2(1733) đời Lê Thuận Tông, làm quan đến Hàn lâm viện Thừa chỉ, được thăng Hữu thị Lang tước Phùng lĩnh tá. Một số tài liệu chép ông lấy vợ làng Bái Dương nay thuộc xã Nam Dương, huyện Nam Trực. Năm 1739 ông cùng Đoàn Doanh Chấn, Tú Cao dấy binh khởi nghĩa tại làng Ngân Già. Năm 1740 Chúa Trịnh Doanh đem quân tới đàn áp, ông đã thủ tiết.
80 – Vũ Đoan (TK 16)
Quê xã Đồng Lư, tổng Hộ Xá, huyện Giao Thuỷ nay là thônĐồng Lư, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên 2(1523) đời Lê Cung Hoàng, làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư. Ông có công lập ra làng An Hoạch và phục hưng nghề đục đá.
81 – Vũ Huy Trác
(7/5 Canh Tuất 1730 – 3/10 Quý Sửu 1793 )
Hiệu là Giác Trai.
Quê xã Lộng Điền, huyện Đại An nay là thôn Lộng Điền, xã Nghĩa Đồng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Sau khi đỗ Hương cống, ông nhận chức Binh bộ Tư vụ. Năm 1763 ông làm Huấn đạo Tiên Hưng, năm 1768 được thăng Tri huyện Nam Chân.
Năm 43 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33(1772) đời Lê Hiển Tông.
Năm 1773 ông được sung Hàn lâm viện Hiệu thảo. Năm 1777 ông giữ chức Công khoa Đô cấp sự trung, rồi Giám sát ngự sử Thanh Hoá, Hiến sát sứ Kinh Bắc. Năm 1779 ông chuyển làm Hiến sát sứ Nghệ An. Năm 1782 ông làm Tham chính Kinh Bắc, Hàn lâm viện Thị thư. Năm 1783 ông làm Đốc trấn Lạng Sơn, năm 1785 được thăng hàm Hàn lâm viện Thị giảng, năm 1787 thăng Hàn lâm viện Thị độc, tước Côi Lĩnh bá. Năm 1788 ông giữ chức Lễ bộ Tả thị lang, kiêm Quốc tử giám Tư nghiệp, Giám quân đạo Sơn Nam. Đến thời Tây Sơn ông về quê dạy học.
Ông nổi tiếng giỏi văn chương, người đường thời tôn vinh ông là “Thần phú”. Tác phẩm của ông có Giang nam lão phố thi tập, Nam Chân nhân vật khảo, Nhất thân thường hành quốc âm ca, Liêu Động di biên (chuyển thể 10 bài ca dao chữ Hán của Trần Nhật Duật thành 10 bài phú Nôm).
82 – Vũ Hữu Lợi (1836 – 1886)
Sau đổi là Vũ Ngọc Tuân. Hiệu là Nghĩa Phẫn. Dân gian thường gọi là ông nghè Giao Cù.
Quê xã Giao Cù, huyện Nam Chân nay là thôn Giao Cù, xãĐồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Canh Ngọ (1870).
40 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất hợi niên hiệu Tự Đức 28(1875), làm quan trải các chức Đốc học Nam Định, Thương biện Nam Định, Binh bộ Tá lý. Năm 1884 ông bỏ quan về quê dạy học, tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Ông bị Vũ Văn Báo lừa bắt nộp cho Pháp, bị hành hình vào đêm 30 tết Bính Tuất (1886) tại bờ sông Đào Nam Định.
83 – Vũ Kiệt (TK 15)
Có sách chép là Vũ Công Kiệt.
Quê xã Sa Lung, huyện Tây Chân nay là thôn Sa Lung, xãĐồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9(1478) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Cấp sự trung.
84 – Vũ Thiện Đễ (1854 – 1916)
Tự là Thuận Trai, hiệu là Trang Khải.
Quê xã Bách Cốc, huyện Vụ Bản nay là thôn Bách Cốc, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Mão 1891, đỗ Phó bảng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái 4(1892), được bổ chức Tri phủ Thanh Hà, thăng Binh bộ Tham tri, rồi Tuần phủ Hà Nam – Ninh Bình, sau thăng đến Tổng đốc.
85 – Vũ Triệt Võ (1460 – ? )
Quê xã Đào Lạng, huyện Đại An nay thuộc xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
28 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông. (Sách Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục chép ông đỗ năm 47 tuổi), làm quan đến chức Hình bộ Tả thị lang.
86 – Vũ Tuấn Chiêu (1425 – ? )
Quê xã Cổ Da, huyện Tây Chân nay là thôn Xuân Lôi, xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Định cư phường Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức nay là thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
51 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa ất mùi niên hiệu Hồng Đức 6(1475) đời Lê Thánh Tông. (Sách Đại việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục chép ông đỗ Trạng nguyên năm 55 tuổi), làm quan đến chức Lại bộ tả Thị lang.
87 – Vũ Vĩnh Trinh ( TK 15 )
Tự là Hựu Chi.
Quê xã An Cự, huyện Thiên Bản nay là thôn An Cự, xã Đại An, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhất giáp khoa Minh Kinh năm Kỷ Dậu niên hiệu Thuận Thiên 2(1429) đời Lê Thái Tổ, được bổ chức Giáo thụ. Đến đời Lê Thánh Tông, ông làm Hàn lâm viện Đại học sĩ, quyền Lễ bộ Hữu thị lang, Hải Tây đạo tuyên chính sứ ty, kiêm Bí thư giám, Tri kinh diên sự.
88 – Vương Văn Hiệu ( TK13 )
Quê huyện Thượng Hiền nay thuộc tỉnh Nam Định.
Ông đỗ thứ ba Đệ nhất giáp khoa thi Thái học sinh năm Mậu Thìn niên hiệu Trinh Khánh 3 đời Lý Huệ Hoàng. (Lý Huệ Hoàng có thể là Lý Huệ Tông (1211 – 1224), nhưng triều vua này không có hiệu Trinh Khánh. Năm Mậu Thìn 1208 thuộc triều Lý Cao Tông (1176 – 1210 ) có niên hiệu là Trinh Phù. Do vậy chưa có cứ liệu chính xác).
các vị đại khoa chưa có cứ liệu chính xác
89 – Bùi Chí (TK15)
Quê xã An Lãng, huyện Trực Ninh nay thuộc xã Trực Chính, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Không rõ hành trạng và khoa thứ của ông, chỉ biết ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) thời Lê, làm quan trải bốn triều vua, được phong tước Lại Quốc công. Ông có tác phẩm Đa tạ Hoàng thiên thi tập.
90 – Bùi Ư Đài (Cuối TK14 – Đầu TK15)
Tự là Doãn Trung, thuỵ là Phúc Toàn.
Quê xã Bách Cốc, huyện Thiên Bản nay là thôn Bách Cốc, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Theo Gia phả họ Bùi và văn bia ở làng Bách Cốc, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định ông đỗ Thám hoa khoa thi Thái học sinh thời Trần (không rõ khoa thứ), không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Khi Lê Lợi dấy binh chống giặc Minh, ông đã dẫn một số trai làng vào Thanh Hoá theo Lê Lợi. Năm 1427 ông được phong chức Lễ bộ Thượng thư kiêm Tri Đông Đạo quân dân bạ tịch, sau đổi Tri Bắc Đạo quân dân bạ tịch. Năm 1434 vì khuyên vua không dùng bọn gian thần nên ông bị giáng chức lưu đày. Năm 1437 ông được minh oan và phục chức Đồng tri môn hạ tả ty sự kiêm Tham tri quân dân bạ tịch Tây Đạo, tước Trí tự. Ông mất vào thời Lê Nhân Tông, thọ 78 tuổi. Sau khi mất, ông được truy tặng Thái phó Bình quận công và được phong làm Thành hoàng làng Bách Cốc.
91 – Dương Kỳ (TK16)
Quê xã Cao Hương, huyện Thiên Bản nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Mùi niên hiệu Quang Bảo 5(1559) đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến chức Tán trị Thừa chính sứ. (Trong Đăng khoa lục khoa thi 1559 lấy đỗ 20 người nhưng không thấy có tên ông).
92 – Đào Đăng Quỹ ( ? – ? )
Quê xã Đệ Nhị, huyện Mỹ Lộc nay thuộc xã Mỹ Trung, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Tham tụng Thượng thư lệnh kiêm Tri nội ngoại quân quốc trọng sự, tước Tế Mỹ hầu, thuỵ Trung ái. Sách Nam Định tỉnh chí của Ngô Giáp Dậu chép ông đỗ Tam nguyên.
93 – Đinh Chấn Cương ( ? – ? )
Quê xã Lương Xá Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) triều Lê, làm quan Tri phủ Thiên Trường, rồi Binh khoa Cấp sự trung. Hiện cònđền thờ ông ở quê. Cha ông là Đinh Thúc Thông có đền thờ ở Quán Vinh (Nho Quan).
94 – Đinh Công Quy ( ? – ? )
Quê xã An Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Thám hoa triều Lê Mạt.
95 – Đinh Viết… ( TK 16 )
(Không rõ tên)
Quê xã Đồng Lư, huyện Nam Chân nay là thôn Đồng Lư, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Lịch sử xã Tân Thịnh chép ông đỗ Tiến sĩ năm 1523.
96 – Đỗ Công Hoan ( ? – ? )
Quê xã Lương Xá Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Đốc trấn Cao Bằng.
97 – Đồng Nhân Đức ( ? – ? )
Quê xã Đồi Tam, huyện Đại An nay là thôn Tam Đăng, xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Thám hoa triều Lê, làm quan đến Trấn quốc Chỉ huy sứ, có công đánh phỉ ở Lạng Sơn.
98 – Hà Nhân Giả (TK15 – TK16)
Quê xã Lựu Phố, huyện Mỹ Lộc nay thuộc xã Mỹ Trung, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Thám hoa khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5(1502) thời Lê. Làm quan đến Hiến sát sứ. Sau di cư tới thôn Hoa Dương (huyện Kim Động). Hiện nay ở Lựu Phố vẫn còn mộ cha mẹ ông.
99 – Hoàng Ngọc (TK18)
Quê xã Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu nay thuộc xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Hương tiến khoa Quý Hợi, đỗ Tam giáp Tiến sĩ thời Cảnh Hưng. (Khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4(1743) lấy đỗ 7 Tiến sĩ nhưng không thấy tên ông).
100 – Nguyễn Công Huy ( ? – ? )
Quê xã Cổ Liêu, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Lương, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ triều Trần, làm quan Trấn thủ Bồng Châu, thăng Nhập thị á thượng phẩm đại hành khiển.
101 – Nguyễn Quốc Bảo ( ? – ? )
Quê xã Trúc Lại thuộc tỉnh Hải Dương.
Định cư xã Cổ Lũng, huyện Nam Chân nay thuộc xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Ngự sử đô đài.
102 – Nguyễn Vi Phụ ( TK16)
Quê xã Quán Các, huyện Nam Chân nay thuộc xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Lịch sử xã Tân Thịnh chép ông đỗ Tiến sĩ 1510. (Năm 1510 không có khoa thi Tiến sĩ. Khoa Tân Mùi Hồng Thuận 3(1511) và khoa Mậu Thìn Đoan Khánh 4(1508) đều không có tên ông).
103 – Phạm Công Tất ( ? – ? )
Quê xã Phù Đô, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Thắng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Hàn lâm Trực học sĩ.
104 – Phạm Giai ( ? – ? )
Quê xã Đông Cao, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Lộc, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Binh bộ Tả thị lang.
105 – Phạm Hoàng ( ? – ? )
Quê làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản nay thuộc xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Lịch sử xã Liên Minh chép ông đỗ Tiến sĩ năm 1721. (Khoa Tân Sửu Bảo Thái 2(1721) không thấy tên ông)
106 – Tống Ba Thuỵ ( TK16 )
Quê xã Vũ Lao, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Vũ Lao, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Lịch sử xã Tân Thịnh chép ba anh em ông là Tống Văn Mỹ, Tống Ba Thuỵ, Tống Văn Nhã đều đỗ Tiến sĩ cùng khoa năm 1556. (Khoa 1556 không thấy tên ba anh em ông. Khoa này chỉ có một người quê Vũ Lao là Tống Hân).
107 – Tống Văn Mỹ ( TK16 )
Quê xã Vũ Lao, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Vũ Lao, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ba anh em ông là Tống Văn Mỹ, Tống Ba Thuỵ, Tống Văn Nhãđều đỗ Tiến sĩ cùng khoa năm 1556.
108 – Tống Văn Nhã ( TK16 )
Quê xã Vũ Lao, huyện Giao Thuỷ nay là thôn Vũ Lao, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ba anh em ông là Tống Văn Mỹ, Tống Ba Thuỵ, Tống Văn Nhãđều đỗ Tiến sĩ cùng khoa năm 1556.
109 – Trần Công Lâm ( ? – ? )
Tự là Duy Tâm.
Quê xã An Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Lại bộ Tả thị lang.
110 – Trần Công Tâm ( ? – ? )
Quê xã An Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê.
111 – Trần Công Trí ( ? – ? )
Quê xã An Trung, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan Thiên Trường chuyển vận phó sứ.
112 – Trần Duy Năng ( ? – ? )
Quê xã An Cự, huyện Thiên Bản nay là thôn An Cự, xã Đại An, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông từng đỗ Tiến sĩ chế khoa (không rõ khoa thứ). Dân làng chê ông nghèo không đón rước khi ông vinh quy, ông giận bỏ vào ởĐông Sơn (Thanh Hoá) làm thuốc chữa bệnh nuôi gia đình.
113 – Trần Đăng Huỳnh ( TK16 )
Có sách chép là Trần Đăng Oánh, thuỵ là Hựu Mỹ Tiên Sinh.
Quê xã Vị Dương, huyện Mỹ Lộc nay là thôn Vị Dương, xã Mỹ Xá, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân thời Lê (không rõ khoa thứ, có sách chép ông đỗ khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo 2(1556) đời Mạc Phúc Nguyên nhưng tra trong Đăng khoa lục không thấy có tên ông). Ông làm quan trải các chức Giám sát Đô ngự sử, Trấn thủ Hiến Nam. Sau ông bỏ quan về quê rồi đi Bắc Ninh làm nghề thuốc.
114 – Trần Tiệp ( ? – ? )
Tự là Cần Cán.
Quê xã Hạc Bổng, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Trị, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Hiến sát sứ Lạng Sơn.
115 – Vũ Công Bình ( ? – ? )
Quê xã Hạc Bổng, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Trị, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Trấn tướng vùng Đông Hải.
116 – Vũ Công Tế ( ? – ? )
Quê xã Đào Khê, huyện Đại An nay thuộc xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê (Không rõ khoa thứ), làm quan đến Tả thị lang, tước Tô Xuyên bá, thuỵ là Mặc Hiên.
117 – Vũ Công Vỹ ( ? – ? )
Quê xã An Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Tả thị lang, sau về dạy con em trong xã học tập.
118 – Vũ Công Xuyên ( ? – ? )
Tự là Đại Giang.
Quê xã Thôi Ngôi, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Trị, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Tri phủ Yên Khánh, tước Vương Tường bá.
119 – Vũ Đức Nhã ( ? – ? )
Hiệu là Lan Khê.
Quê xã Hào Kiệt, huyện Thiên Bản nay thuộc xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Lịch sử xã Liên Minh chép ông đỗ Thám hoa khoa Hoành từ triều Lê.
120 – Vũ Giang ( ? – ? )
Tự là Đào Xuyên.
Quê xã An Hạ, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Đề hình Giám sát ngự sử.
121 – Vũ Thế Bá ( ? – ? )
Quê xã Thôi Ngôi, huyện Đại An nay thuộc xã Yên Trị, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Ông đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Công bộ Tả thị lang, tước Tô Xuyên bá.
Nguồn Newvietart.com